Thứ Ba, 10 tháng 7, 2012
Note 11/7/2012.
Comment của bác Lý Toét trong Blog BS Hồ Hải.
Những lời rỉ tai mãi cũng có tác dụng, blog quanlambao là một thí dụ. Những thông tin trong blog này ở trong Nam thì xem có vẻ "cung đình" nhưng nó thể nghe đầy tai ở những quán nước chè chén thuốc lào trên vỉa hè Hà Nội.
Đã là thông tin mật thì không thể thoát ra ngoài. VN là một cường quốc tình báo. Nhờ tình báo tốt hơn mà chiếm được miền nam.
Blog quanlambao nhắm tới đối tượng là đương kim thủ tướng không hiểu có dụng ý gì? Với những người hiểu biết thì Thủ tướng chính phủ chỉ là người thay mặt Trung ương đảng đứng ra điều hành nội các, còn những quyết định của Thủ tướng phải được toàn bộ Bộ Chính trị thông qua hoặc ít nhất là Thường trực BCT.
Cho nên nói cá nhân ngài Thủ tướng chịu trách nhiệm về những sự vệc xảy ra vừa qua là không hiểu biết về chính trị VN hoặc cố ý đánh lận con đen.
Bản tin úp úp mở mở của quanlambao làm xôn xao dư luận gần đây đề cập đến một báo cáo về TTCK VN. Thực ra không có gì mới, cũng giống như kinh tế VN tăng trưởng không có nền tảng, TTCK VN là nơi thể hiện mạnh mẽ nhất biểu hiện của bong bóng thị trường.
Thị trường chứng khoán VN từ lâu là chốn lừa đảo, được bộ máy tuyên truyền thổi phồng nên một bong bóng và nó đã thực sự xẹp vào năm 2007.
Do không chịu thuế thặng dư vốn mà những người sáng lập đã kiếm được hàng chục lần số vốn bỏ ra ban đầu.
Những công ty thực sự kiếm được lợi nhuận siêu ngạch nhờ chính sách như là xăng dầu cũng không được công chúng mặn mà vì ban lãnh đạo chỉ trích cổ tức nhỉnh hơn hoặc bằng với lãi ngân hàng, phần lợi tức lớn hơn nhiều họ đã rút ra bằng các thủ thuật kế toán.
Các công ty trên sàn tăng trưởng ảo như vậy làm sao thu hút được vốn, sống được đã là may.
Đấy là tại VN. Còn trên thế giới thì sao. Sàn LME London danh bất hư truyền giao dịch kim loại của thế giới được người Tàu mua lại với giá 2 tỷ đô, gấp 160 lần trị giá vốn hóa của LME và gấp 60 lần giá bỏ thầu của một công ty bên Mỹ. Con số đó cho thấy các công ty tài chính hiện rẻ rúng như thế nào.
Các công ty chứng khoán ở VN là những ai - là của những ngân hàng. Cái thời họ thổi bong bóng, họ vừa là khách hàng lớn (tay to) của CTCK bạn họ vừa tranh mua với khách hàng nhỏ lẻ để thổi giá chứng khoán lên với tốc độ kịch trần mỗi ngày.
Công ty quản lý vốn nhà nước SCIC cũng kiếm được trong thời kỳ này. Khi TTCK đi xuống, họ là người tung tiền vào vực TTCK đi lên lay lắt cho đến ngày hôm nay.
Nay, các ngân hàng vướng vào khoản nợ xấu. Có thể đây là dịp để họ thanh lý môn hộ, đưa các khoản nợ thối vào các CTCK rồi sau đó tuyên bố phá sản.
Chỉ có thể là: Lạm phát đang ở phía trước.
------------------------------------------------------------------
Nói về lạm phát và tăng trưởng tín dụng:
Về lý thuyết thì cứ 1 đồng tín dụng được tăng lên, nếu không có 1 đồng tiết kiệm nhảy vào tương ứng thì XH có thêm 1 đồng tiền. Điều này thì kinh tế đương đại ở bất kỳ nước nào cũng hoạt động như vậy do tiền không còn được đảm bảo bằng vàng hay vật chất, mà chỉ là nợ của chính phủ.
Vấn đề này nếu trong 1 nền kinh tế cân bằng sẽ là động lực cho sản xuất và phát triển. Nền kinh tế cân bằng có thể hiểu là nền kinh tế mà tăng trưởng hàng hóa + dịch vụ gần bằng tăng trưởng tín dụng, dẫn đến lượng tiền tăng lên gần tương đương với lượng hàng có thêm, và điều này tuyệt vời khi lạm phát khoảng 1-2% 1 năm.
Vấn đề trở nên nghiêm trọng đối với VN hiện giờ không phải là tăng trưởng tín dụng bao nhiêu, mà nó là ở tăng trưởng sản xuất thực sự là bao nhiêu cộng với cái đống nợ xấu và cộng hưởng từ bội chi ngân sách. Tăng trưởng sản xuất thực sự thì có thể thấy rất cao từ số liệu 30% DN giải thể, phá sản. Cái đống nợ xấu cũng phần lớn nằm ở chứng khoán và BDS, là 2 loại tài sản hầu như không có thanh khoản trong thời điểm này, và có thể là trong vài ba năm tới. Tăng trưởng tín dụng mười mấy % đó, có vẻ lại chảy vào BDS với hi vọng cải thiện thanh khoản cho đám này. Tuy nhiên thì có vẻ như các chiêu "kích", "khích" này nọ đều không có tác dụng. Do không có thanh khoản, nên không thể giải quyết nợ xấu bằng việc xử lý tài sản, buộc nhà nước trước hay sau gì cũng phải dùng ngân sách để thanh lý nợ. Ngân sách từ đâu ra? Có 2 nguồn để lấy tiền cho việc này: bán trái phiếu chính phủ, tận thu thuế và in thêm tiền. Dù có là nguồn nào đi nữa thì cũng phải trả lại bằng lạm phát (chính là thuế) cho toàn bộ 90 triệu dân. Cái đám tài sản thế chấp từ nợ xấu như vậy sẽ bị quốc hữu hóa, sau đó lại trao lại cho các DNNN để kinh doanh kiếm "lời". Những ai khôn ngoan và có điều kiện, có thể mua lại thứ tài sản sau khi đã làm "sạch" này với giá "nhà nước quy định". Vừa thoát nợ, vừa có cơ hội kiếm tiền, quả là 1 xã hội đáng sống.
Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012
Thấy gì từ CPI âm?
Lạm phát giảm do sức mua của dân kiệt quệ
Giảm phát, giảm cầu nhưng rồi GDP vẫn tăng trưởng. Nếu giảm phát đến là do các chính sách của nhà nước nhằm hạ nhiệt lạm phát thì đó là điều tốt, còn nếu không phải như vậy thì đó là dấu hiệu suy vong kinh tế. Giảm phát do kiệt quệ sức mua, thất nghiệp do mất việc làm, sản xuất sụp đổ nghĩa là kinh tế sụp đổ chứ có gì đâu.
Bài toán 90 người ăn 10 con gà lúc này mới lộ ra, còn nhiều chuyện hay ho nữa đây. Hậu quả của việc giảm phát kiểu này là: 1/ Rất khó vực dậy sản xuất để giúp tăng thu nhập và giải quyết việc làm, 2/ cùng với việc khó vực dậy sản xuất + sức mua ngày càng giảm sẽ tạo ra vòng xoáy suy thoái. 3/ Điểm kết thúc của vòng xoáy suy thoái là hàng hóa khan hiếm trầm trọng, đồng tiền sụp đổ do lượng tiền có nhiều hơn lượng hàng rất nhiều lần, đó là lúc xóa bàn cờ làm lại ván mới.
Tuy nhiên, do ta còn nhiều USD, nên nhập khẩu hàng TQ giá rẻ về bán thì có lẽ vẫn cầm cự được, cơ hội làm giàu là đây.
Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012
Người Việt càng ăn xài thì càng giàu???
Người Việt càng ăn xài thì càng giàu
Trình độ phân tích thế này mà cũng được đăng lên báo. Thật ngán ngẩm với đội ngũ làm báo của VN ta.
Để hiểu rõ nền kinh tế VN, cần có sự hiểu biết sâu sắc về phân bố thu nhập, tình trạng tín dụng, chính sách điều hành kinh tế dựa trên các tập đoàn quốc doanh, hệ thống ngân hàng, khả năng sản xuất sản phẩm độc lập, R&D. bạn MBA gì đó nên tìm hiểu kỹ hơn khi viết bài lên báo nhá.
Trình độ phân tích thế này mà cũng được đăng lên báo. Thật ngán ngẩm với đội ngũ làm báo của VN ta.
Câu chuyện GDP của ta là 1 câu chuyện rất phức tạp. Một nền kinh tế với tín dụng đen, giao dịch tiền mặt, buôn lậu tràn lan, trốn thuế phổ biến, thì tất cả sự thống kê đều có sai số cực lớn.Tôi còn nhớ bài phát biểu của GS. Morris Kotler năm 2008, khi ông phân tích rõ động lực tăng trưởng của một quốc gia phụ thuộc vào ba yếu tố: nguồn vốn đầu tư (Capital) + cải thiện năng suất lao động (Labor efficiency) + cải tiến công nghệ (Innovation).
Trong ba yếu tố này thì tăng trưởng của Việt Nam dựa vào hơn 90% yếu tố đầu tiên (vốn đầu tư), khi những năm 2006 - 2008 sự bùng nổ của chứng khoán và bất động sản kéo theo số vốn FDI lên đến 100% GDP của Việt Nam.
Điều đó dễ dàng giải thích vì sao khi nguồn vốn mới giảm mạnh, tăng trưởng của Việt Nam khó gượng dậy vì hai động lực tăng trưởng còn lại đều là những yếu tố mang tính dài hạn, không thể bỗng chốc cải thiện được ngay.
Bây giờ ta trở về với phương trình vĩ mô kinh điển và cơ bản: GDP = C + I + G + (Ex-Imp).Trong đó: GDP là tổng sản phẩm quốc nội
C: tiêu dùng cá nhân
I: tổng đầu tư
G: chi tiêu Chính phủ
Ex: xuất khẩu
Imp: nhập khẩu
Chúng ta hãy cùng phân tích để tìm động lực phát triển kinh tế nước nhà.
1. Chữ I (tổng đầu tư)Chữ "I" như đã nói ở trên nay "đuối" rồi, vốn ngoại giảm, tín dụng "thắt", ai cũng "kẹt" (hoặc bị "kẹp"). Tuy nhiên sự đáng lo là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư ROI (Return On Investment), cái "roi" nó "đánh" chữ I.
Nếu như nguồn vốn ngoại trong 3 năm qua + tăng trưởng tín dụng chóng mặt (>30% những năm 2006-2010) thì với ROI "khả dĩ" 5% - 7%/năm thì chúng ta đâu đến nỗi chật vật với cái tỷ lệ tăng trưởng 4.5% của quý I.
Vậy tiền đi về đâu? Đầu tư vào cái gì? Hầu hết đầu tư vào bất động sản và hạ tầng, những thứ một khi đã "tắc" là "chết".
2. Chữ G (chi tiêu Chính phủ)Nhìn vào chữ G càng đáng lo hơn. "Bẫy" GDP là ở đây. Khi Chính phủ bỏ tiền ra xây một con đường thì số tiền X được ghi nhận vào GDP. Vài tháng sau đường ngập phải đôn lên vài chục cm, ghi nhận X+ vào GDP.
Nửa năm sau sụt lún, nứt, ổ voi, hố từ thần, sửa, lại cộng X++ vào GDP. Một năm sau ông ống nước, ông nhà đèn, bứng toàn bộ lên cho thêm mấy cái ống vào, phải làm lại toàn bộ mặt đường, lại X++++ thêm vào GDP...Cứ như thế một đoạn đường giá trị đã tăng lên gấp n lần và "đóng góp tích cực" vào GDP nước nhà.
Rồi một dự án khác ngốn đến tiền tỷ USD trong chục năm qua tại thành phố là dự án đào đường lắp cống...
Tuy nhiên cái khả năng hủy hoại tiểu thủ thương nghiệp địa phương thì vô song, từ các cửa hàng mặt tiền tại các quận sầm uất nhất sa sút, rồi đóng cửa, đổi chủ đến giao thông tắc nghẽn... cái chi phí này ko biết "hạch toán" vào đâu? Thực tế về phía cạnh "đầu tư" thì chi phí cơ hội này là chi phí trực tiếp của dự án, nếu tính thế thì sẽ dễ hiểu cái ROI của chữ I nhà ta.
Một đề án "cải cách chương trình giáo dục" ngốn hết 1 tỷ USD để rồi sách giáo khoa càng ngày càng "to", càng "dày", con cái nhà ta càng khổ, mà đã "khổ" thì làm sao mà "khôn"?
Ấy thế nên nhiều phụ huynh phải giẫm đạp nhau cho con vào trường quốc tế, trường tư, thực nghiệm... chả biết thế nào nhưng ít ra "đỡ khổ".
3. Chữ "Ex" chữ "Imp" (xuất nhập khẩu)Cái này thì khỏi bàn vì ai cũng biết cán cân thương mại chúng ta "lệch" cỡ nào. Gần đây thâm hụt "giảm", chẳng qua vì hết tiền mua ôtô - ipad - vàng nên nhập siêu giảm thôi. Chứ cái Ex thì tăng trưởng chậm lại thấy rõ mà!
4. Chữ C (tiêu dùng cá nhân) - niềm hy vọng lớnChữ C có lẽ là hy vọng cuối lớn lao. Hơn 80 triệu người, 80 triệu cái miệng ăn, tuyệt vời hơn (so với cả các nước phương Tây) là 80 triệu miệng ăn này há ra chưa "mắc quai (nợ)" nhiều.
Tỷ lệ nợ trên mỗi cá nhân Việt Nam thấp thế nào ai cũng biết, tỷ lệ tiết kiệm (saving), đặc biệt bằng "đô" - bằng "vàng" là 1 khối tài sản khổng lồ không ai biết rõ bao nhiêu, chỉ biết là nhiều, nhiều lắm!
Có lẽ hy vọng bây giờ là khiến 80 triệu người dân Việt Nam móc túi ra tiêu, rồi lại làm, rồi lại tiêu, cứ thế là giàu thôi. Nghe có vẻ lạ, càng "ăn" càng "xài" càng giàu! Nhưng nó là quy luật phát triển tất yếu của nền kinh tế.
Để hiểu rõ nền kinh tế VN, cần có sự hiểu biết sâu sắc về phân bố thu nhập, tình trạng tín dụng, chính sách điều hành kinh tế dựa trên các tập đoàn quốc doanh, hệ thống ngân hàng, khả năng sản xuất sản phẩm độc lập, R&D. bạn MBA gì đó nên tìm hiểu kỹ hơn khi viết bài lên báo nhá.
Qatar đổi dầu mỏ lấy giáo dục
Qatar đổi dầu mỏ lấy giáo dục
Người đàn bà thép Myanma, hoàng thân Sheikh Abdulla bin Ali Al-Thani của Qatar xứng đáng là những vị anh hùng dân tộc.
Họ, là những người xuất phát từ tầng lớp quý tộc với sự nhận thức về nhân bản đầy đủ, không có nhiều tham vọng về của cải, quyền lực (do họ đã dư thừa). Chỉ những tầng lớp như vậy mới có đủ sáng suốt và lòng vị tha cho nhân dân, có đủ tâm huyết để phát triển dân tộc.
Quay lại sử ta, hầu hết các vị anh hùng dân tộc Việt cũng là xuất thân từ tầng lớp quý tộc.
Sự trùng lặp thú vị, nhưng đó là quy luật. Khi những tầng lớp thiếu hiểu biết nắm quyền lực, họ sẽ vì sự mặc cảm tự ti mà làm hại cho cả dân tộc. Hãy tin tôi đi.
Nếu chúng ta vẫn thực sự có niềm tự hào dân tộc, có tâm huyết xây dựng Việt Nam hùng cường như vẫn tuyên truyền, thì hãy để tầng lớp quý tộc lãnh đạo đất nước.
Người đàn bà thép Myanma, hoàng thân Sheikh Abdulla bin Ali Al-Thani của Qatar xứng đáng là những vị anh hùng dân tộc.
Họ, là những người xuất phát từ tầng lớp quý tộc với sự nhận thức về nhân bản đầy đủ, không có nhiều tham vọng về của cải, quyền lực (do họ đã dư thừa). Chỉ những tầng lớp như vậy mới có đủ sáng suốt và lòng vị tha cho nhân dân, có đủ tâm huyết để phát triển dân tộc.
Quay lại sử ta, hầu hết các vị anh hùng dân tộc Việt cũng là xuất thân từ tầng lớp quý tộc.
Sự trùng lặp thú vị, nhưng đó là quy luật. Khi những tầng lớp thiếu hiểu biết nắm quyền lực, họ sẽ vì sự mặc cảm tự ti mà làm hại cho cả dân tộc. Hãy tin tôi đi.
Nếu chúng ta vẫn thực sự có niềm tự hào dân tộc, có tâm huyết xây dựng Việt Nam hùng cường như vẫn tuyên truyền, thì hãy để tầng lớp quý tộc lãnh đạo đất nước.
Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012
Ai là người cuối cùng gánh nợ xấu?
Gần đây, những khoản nợ mười mấy ngàn tỉ đồng của một ngân hàng nọ đang được không ít tổ chức tín dụng để ý và đánh tiếng. Họ muốn mua lại vì chúng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là một số khu đất “vàng”, trung tâm thương mại, tòa nhà văn phòng, căn hộ ở trung tâm một thành phố lớn. Quá trình thảo luận tập trung vào giá khi ngân hàng chủ nợ không muốn bán rẻ, còn bên mua thì yêu cầu chiết khấu càng nhiều càng tốt.
Mờ ảo khối nợ
Không phải ngẫu nhiên mà trong cuộc họp với nhóm 14 ngân hàng thương mại lớn (G-14) vào tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt lên bàn chủ trương thành lập công ty mua bán nợ quốc doanh với số nợ có thể giao dịch lên tới 100.000 tỉ đồng. Chưa rõ thời điểm hoạt động, ai góp vốn và cơ chế giao dịch như thế nào, nhưng chủ trương khai sinh một pháp nhân như vậy cho thấy sự bức thiết phải tháo gỡ ngay khối nợ xấu trong nền kinh tế. Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.
Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính chỉ ra các tập đoàn, tổng công ty đang nợ ngân hàng khoảng 415.000 tỉ đồng. Tuy nhiên nợ và nợ quá hạn khác nhau. Tỷ lệ vay nợ cao, gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu là thực trạng chung của khối quốc doanh khi mà ngân sách không cấp đủ vốn cho doanh nghiệp, trong khi các tập đoàn “bành trướng” quá nhanh vào nhiều lĩnh vực.
Cơ quan có thể đánh giá tương đối chính xác về nợ và nợ xấu là NHNN. Tiếc rằng tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố luôn khiến người ta phải hoài nghi. Tỷ lệ nợ xấu gần nhất được NHNN đưa ra là khoảng 3,2-3,6% tổng dư nợ, chênh lệch khá xa mức 13% mà Tổ chức định mức tín nhiệm Fitch công bố năm ngoái. Còn so với mức chừng 10% mà các chuyên gia tài chính khẳng định, nó thấp hơn ba lần.
Hiện tại dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng ước 2,5 triệu tỉ đồng. Giả sử tỷ lệ nợ xấu 10%, nó tương đương 250.000 tỉ đồng hay 12 tỉ đô la Mỹ. Số nợ xấu này hầu như đang nằm im, chỉ nhúc nhích trong một số trường hợp mua bán nợ thành công. Muốn giải quyết nó, trước hết phải làm nó chuyển động. Mặc dù NHNN vừa ban hành Văn bản 2871 ngày 16-5-2012 cho phép các tổ chức tín dụng mua bán nợ, nhưng sự khởi động tỏ ra chậm chạp vì thiếu người khởi xướng.
Cũ và mới
Trong lịch sử non trẻ của ngành ngân hàng, hẳn nhiều người chưa quên giai đoạn sóng gió các vụ án Tamexco, Minh Phụng - Epco. Ngày đó, số nợ xấu của ngân hàng cũng lớn so với tổng dư nợ, nhưng quy mô không thể so với bây giờ. Và cái khác căn bản là giá trị của tài sản thế chấp bất động sản chưa ở mức “bong bóng” như hiện tại.
Tài sản đảm bảo, chủ yếu là đất và quyền sử dụng đất, của Minh Phụng - Epco ở thời điểm thế chấp, đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng 5-6 năm sau đó. “Cơn sốt” bất động sản khi ấy còn sơ khai. Nay thì khác. Giá đất đã tăng chóng mặt trong vòng năm năm qua và dường như thời kỳ đỉnh cao của nó đã qua. Những khu đất được định giá thấp hơn giá thị trường và chỉ được cho vay bằng 50-70% giá trị ở thời điểm vay 3-4 năm trước, hiện khó mà chuyển nhượng bằng với mức định giá của ngân hàng. Sự ì ạch của việc phát mãi tài sản nhằm thu hồi vốn của ngân hàng xuất phát từ đây. Đúng là thủ tục phát mãi phức tạp. Tuy vậy sự phức tạp đó không mang tính quyết định. Người ta e ngại chủ yếu giá chuyển nhượng các tài sản thấp hơn giá trị khoản vay.
Nói ngắn gọn, để thanh lý nợ xấu, phải có ai đó gánh phần lỗ lã, hoặc ngân hàng, hoặc người vay. Tốc độ xử lý nợ phụ thuộc vào mức độ chiết khấu so với giá thị trường. Có những tổ chức “kền kền” sẵn sàng vào cuộc, bởi nghề của họ là đánh hơi các dấu hiệu của “xác chết”.
Có hai cách để thanh lý nợ xấu: thứ nhất là mua đứt bán đoạn trên cơ sở thương lượng giữa các tổ chức “kền kền” và các ngân hàng chủ nợ. Cách này cho kết quả nhanh và dứt điểm. Nó sẽ buộc những ngân hàng bán nợ hạch toán ngay một/nhiều khoản lỗ và dĩ nhiên ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng. Để “cứu” những ngân hàng lỗ, Nhà nước và các doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác phải vào cuộc. Sẽ lại xuất hiện những biện pháp cũ: tái cấp vốn, góp vốn của những ngân hàng khỏe để hỗ trợ, ưu đãi thuế...
Cách thứ hai là Nhà nước bỏ vốn thông qua NHNN vào công ty mua bán nợ và công ty này thông qua mua nợ, trở thành cổ đông của các ngân hàng bán nợ. Khi ngân hàng bán nợ lấy lại phong độ, Nhà nước có thể bán cổ phần của mình, thu hồi vốn. Đây là cách mà nhiều quốc gia đã thực hiện.
Rốt cuộc áp dụng cách nào, Nhà nước, mà ở đây là ngân sách, cũng phải bỏ tiền ra. Từ trường hợp xử lý nợ Vinashin ở Habubank dễ dàng nhận ra ngân sách đã phải bỏ tiền ra thông qua ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ba năm cho SHB; cho trích lập dự phòng nợ Vinashin dần từng năm thay vì tiến hành ngay một lúc theo thông lệ quốc tế; cho phép Vinashin phát hành trái phiếu với sự bảo lãnh của Chính phủ để trả một phần nợ.
Khi Nhà nước phải bỏ tiền, câu hỏi đi kèm sẽ là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách đó không?
Ai sẽ được mua lại nợ xấu?
Về kế hoạch thành lập công ty mua bán nợ của Ngân hàng Nhà nước, nếu xét về động cơ và mục đích, sẽ thấy đây là giải pháp nhằm cứu ngân hàng. Khi một khoản nợ xấu được xử lý, ngân hàng sẽ được lợi nhiều mặt: giảm trích lập dự phòng, bảng cân đối trở nên sạch sẽ, có thêm khoản tiền từ bán nợ... Khi đó, vốn có thể sẽ chảy mạnh hơn ra nền kinh tế, nhưng chảy đi đâu, có chảy vào các dự án “sân sau”, có tiếp tục phát sinh nợ xấu hay không là chuyện của thì tương lai. Vì vậy, nói rằng cứu doanh nghiệp, cứu nền kinh tế thông qua việc mua nợ xấu cho các ngân hàng là chuyện... ảo tưởng.
Một vấn đề cũng đáng quan tâm, đó là những ngân hàng nào sẽ nằm trong danh sách được mua lại nợ xấu. Mâu thuẫn là nợ xấu cao chủ yếu ở các ngân hàng nhỏ, năng lực quản lý kém. Hiện nay có khoảng hơn 10 ngân hàng ngưng cho vay mới đều là những ngân hàng nhỏ và yếu, trong khi các ngân hàng lớn đang thừa vốn và sẵn sàng cho vay song lại khó tìm được khách hàng tốt. Do đó, nếu mua nợ xấu của các ngân hàng nhỏ thì thực tế phần giải ngân mới của họ lại không được bao nhiêu. Trong khi đó, đối với các ngân hàng lớn, mạnh thì nợ xấu không phải là rào cản để họ bơm vốn ra thị trường. Vì vậy, mua bán nợ xấu có thể là dịp cho nhóm lợi ích trỗi dậy, tiêu cực sẽ phát sinh.
(Lê Duy Khánh)
|
Còn cân nhắc
Theo ông Trương Văn Phước, Tổng giám đốc Ngân hàng Eximbank, tình hình nợ xấu hiện nay của các ngân hàng thương mại đã khiến Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải đưa ra các liệu pháp điều trị. Thực tế hoạt động mua bán nợ đã có từ trước năm 2000 nhưng do tình hình kinh tế diễn biến tốt, các khoản nợ của ngân hàng cũng trong mức độ cho phép nên vai trò của công ty mua bán nợ chưa được coi trọng. Vì vậy, đa phần các ngân hàng đều có công ty quản lý tài sản có chức năng mua bán nợ nhưng không hoạt động hiệu quả. Còn trong tình hình hiện nay khi nợ xấu đã lên hơn 4% tổng dư nợ trong toàn hệ thống thì các ngân hàng có công ty quản lý tài sản (AMC) với vốn điều lệ chỉ vài trăm tỉ đồng trở lại không thể thực hiện được công việc này đối với ngân hàng mẹ, vì vậy để giải quyết vấn đề nợ của cả ngành ngân hàng thì cần có một công ty chung do NHNN thành lập.
Về việc tham gia vào hoạt động mua bán nợ, ông Phước cho rằng các ngân hàng thương mại cũng sẽ cân nhắc, đàm phán nếu có lợi thì sẽ thực hiện. Với nguồn tiền cho hoạt động này, ông Phước cho rằng NHNN có thể tính toán, nhưng khả năng phát hành trái phiếu là rất lớn, sẽ khó có khả năng NHNN in tiền để thực hiện việc này.
Vấn đề chính là giá
Liên quan đến ý tưởng lập công ty mua bán nợ của NHNN, ông Trịnh Văn Tuấn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Phương Đông, cho rằng với việc mua bán nợ, vấn đề chính là giá và cũng chưa rõ NHNN sẽ mua nợ nhóm nào, tiêu chí ra sao. Tuy vậy, ông cho rằng khả năng ngân hàng thương mại tham gia vào nhóm đi mua nợ là khó vì hiện nay họ còn phải chống chọi lại các khoản nợ xấu của chính mình.
Không trực tiếp gây ra lạm phát
Ở góc độ một chuyên gia độc lập, ông Vũ Đình Ánh cho rằng việc thành lập công ty mua bán nợ cũng như việc các ngân hàng thương mại chuyển vị trí chủ nợ sang cho NHNN là nhằm làm sạch bảng cân đối kế toán của các ngân hàng, qua đó góp một phần vào việc khơi thông dòng chảy tín dụng. Tuy vậy, ông Ánh đặt vấn đề là có nên thành lập một công ty hay chỉ là một chương trình nằm trong đề án cơ cấu lại nợ của NHNN vì đây chỉ là một biện pháp tình thế. Việc bỏ ra 100.000 tỉ cho công ty mua bán nợ để giải quyết nợ xấu, theo ông Ánh, sẽ không trực tiếp gây ra lạm phát, nhưng việc tăng dòng chảy tín dụng trở lại có thể ảnh hưởng đến lạm phát.
(Thanh Thương)
|
------------------------------
Bình: Việc thành lập công ty mua bán nợ xấu sẽ được thực hiện, sau 2 công ty mua bán chứng khoán xấu của nhà nước SCIC, và HFIC.
Công ty mới này rồi cũng có khác gì với 2 công ty kia hay không?
Chúng ta có cần phải có công ty mua bán nợ xấu hay không? Hay là ta nhân dịp này, tái cơ cấu lại ngành ngân hàng, tập trung phát triển các ngân hàng mạnh thì sẽ có lợi hơn?
Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
Dồn sức cứu BĐS: Những hệ quả nguy hiểm
(VEF.VN) - Khi đối diện với khủng hoảng, cá nhân con người hay doanh nghiệp hay bộ máy công quyền thường chọn một trong hai phản ứng: hoặc sửa đổi toàn diện để thích nghi với hoàn cảnh mới; hoặc quay về với những thói quen xưa cũ mà họ cho rằng đã giúp họ đạt được quyền và lợi hiện nay.
Tầm cỡ của gói cứu trợ
Sau gói kích cầu 8 tỷ đô la năm 2008, Việt Nam đã chứng kiến lạm phát phi mã hơn 22% và việc kém hiệu quả khi kích cầu đầu tư công đã tạo một phản ứng dây chuyền từ nhập siêu, dự trữ ngoại tệ sụt giảm, nợ công gia tăng, tiền đồng mất giá... Chính sách siết chặt tiền tệ sau đó để giữ cương con ngựa kinh tế đã tạo nên sự suy thoái đình đốn hiện nay. Dư vị còn đắng cay thì các nhà điều kinh tế lại đang áp dụng biện pháp cũ này để chữa bệnh mới.
Sau khi đổ tiền cứu ngân hàng và chứng khoán, Chính phủ đang dồn nỗ lực để cứu bất động sản. Thay vì gọi là gói kích cầu, lần này chúng ta sử dụng một tên khác: tái cấu trúc, gói hỗ trợ... hay gói từ thiện?
Phát pháo đầu tiên, ông Vũ Xuân Thiện, Phó cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường BĐS tuyên bố chắc nịch là "Có tiền lúc này tôi sẽ mua nhà". Sau đó, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam cho biết, trong số 180.000 tỷ đồng đầu tư công dành riêng cho năm 2012, Chính phủ mới dùng 60.000 tỷ đồng. Vì thế trong 7 tháng còn lại của năm, 120.000 tỷ đồng nữa sẽ được bơm vào thị trường. Theo ông Nam, gói đầu tư công, cộng thêm 38.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tạm ứng trước vốn năm 2013 thì trong 7 tháng cuối năm thị trường có thể đón nhận khoảng 200.000 tỷ đồng. Vì thế, Thứ trưởng Nam hy vọng, dòng tiền này khi được lưu thông chắc chắn sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến nhiều ngành nghề khác, trong đó có địa ốc.
Lãnh đạo Bộ Xây dựng dự báo thêm, nền kinh tế còn có dòng tiền trong dân đang đầu tư vào vàng, USD, gửi tiết kiệm. Tiền của người dân sớm muộn cũng sẽ chảy vào bất động sản khi lãi suất hạ nhiệt và các kênh đầu tư còn lại bắt đầu mất dần tính hấp dẫn. Như vậy, trực tiếp và gián tiếp, tổng cộng gói cứu trợ BĐS có thể lên đến 400 ngàn tỷ đồng (20 tỷ USD).
Những hệ quả xa gần
Tôi không biết có bao nhiêu đại gia BĐS trên toàn quốc đang "đắp chiếu"? Con số chắc không hơn vài ngàn. Dĩ nhiên, nếu giá BĐS xuống quá thấp thì các đại gia ngân hàng, chứng khoán và các nhà đầu cơ thứ cấp cũng bị vạ lây, vì như ông Lê Mạnh Hà (Phó chủ tịch UBND TP.HCM) đã công nhận, giá BĐS là tiền đề cho bài toán kinh tế và chính trị của Việt Nam. Nhưng mọi người dân sẽ phải chịu chung những hệ quả xấu tốt, xa gần mà giải pháp cứu trợ này sẽ đem lại:
Khi một số tiền khủng như vậy đổ vào thị trường BĐS thì ảnh hưởng trên giá cả sẽ phải có, dù chỉ tạm thời. Bong bóng sẽ không nổ tung vào cuối 2012 như nhiều người tiên đoán vì Chính phủ đang hết sức thổi hơi cho BĐS. Nhưng một căn nhà mơ ước cho đại đa số người dân sẽ vẫn nằm ngoài tầm tay trong 5, 10 năm tới vì mức giá vẫn là một ảo tưởng dựng lên bởi những thế lực ngoài thị trường. Con bệnh sẽ trầm trọng hơn vì cuộc giãi phẩu cần thiết đã được dời lại cho đến khi không còn gì để mổ trong đợt điều chỉnh sẽ đến.
Cái giá phải trả (không có bữa ăn nào miễn phí) cho lượng tiền 400 ngàn tỷ trong một thời gian ngắn là giá trị thực sự của đồng tiền VN sẽ phải giảm dù tỷ giá chính thức có thể được duy trì qua các biện pháp hành chính. Để tránh lạm phát phi mã, chính phủ sẽ phải thực hiện việc kiểm soát giá cả trên một bình diện sâu rộng. Ngoài xăng dầu, gạo, điện nước... , các món hàng như dược phẩm, vận chuyển công cộng, các hàng tiêu dung thông dụng... sẽ không được tăng giá. Đây là một bước lùi khá sâu cho nền kinh tế thị trường.
Trong môi trường của nền kinh tế chỉ huy, các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu kiếm lời (profit-seeking) sẽ khổ sở vì chi phí tăng mà giá bán bị kiểm soát chặt chẽ. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước hay các công ty có liên hệ sâu xa với nhà nước sẽ có hai vũ khí bén nhọn: đặc quyền và tiền người khác (OPM) qua ngân hàng. Mô hình kinh doanh thâu tiền chỗ này (rent-seeking) sẽ lên ngôi và sẽ có thêm một loạt đại gia mới là bản sao của các đại gia hiện hữu.
Trên hết, khi hy sinh quyền lợi của đại đa số người dân để cứu vài nhóm lợi ích, và những "sai trái về đầu tư sẽ được bảo vệ". Người Mỹ gọi đây là một "rủi ro về đạo đức" (moral hazard) và sẽ khuyến khích những hành xử tương tự trong tương lai.
Sau 2 gói kích cầu rưỡi và gần 2.000 tỷ đô la trong 3 năm qua, Cơ quan Dự trữ Trung ương Mỹ (FED) đã thất bại trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp hay kích cầu một nền kinh tế tư nhân và năng động của Mỹ. Thành quả duy nhất họ có thể hãnh diện là cứu nguy và tạo lợi nhuận khủng cho các ngân hàng thương mại. Dự đoán lạc quan nhất là GDP Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 2% trong năm nay. Dù không thể bị thay thế, đồng USD vẫn chịu nhiều áp lực vì nợ công tăng vọt sau các gói kích cầu này.
Khi đối diện với khủng hoảng, cá nhân con người hay doanh nghiệp hay bộ máy công quyền thường chọn một trong hai phản ứng: hoặc sửa đổi toàn diện để thích nghi với hoàn cảnh mới; hoặc quay về với những thói quen xưa cũ mà họ cho rằng đã giúp họ đạt được quyền và lợi hiện nay. Tôi đoán là các thế hệ trẻ sẽ phải chờ thêm vài ba thế hệ nữa.
Sau gói kích cầu 8 tỷ đô la năm 2008, Việt Nam đã chứng kiến lạm phát phi mã hơn 22% và việc kém hiệu quả khi kích cầu đầu tư công đã tạo một phản ứng dây chuyền từ nhập siêu, dự trữ ngoại tệ sụt giảm, nợ công gia tăng, tiền đồng mất giá... Chính sách siết chặt tiền tệ sau đó để giữ cương con ngựa kinh tế đã tạo nên sự suy thoái đình đốn hiện nay. Dư vị còn đắng cay thì các nhà điều kinh tế lại đang áp dụng biện pháp cũ này để chữa bệnh mới.
Sau khi đổ tiền cứu ngân hàng và chứng khoán, Chính phủ đang dồn nỗ lực để cứu bất động sản. Thay vì gọi là gói kích cầu, lần này chúng ta sử dụng một tên khác: tái cấu trúc, gói hỗ trợ... hay gói từ thiện?
Phát pháo đầu tiên, ông Vũ Xuân Thiện, Phó cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường BĐS tuyên bố chắc nịch là "Có tiền lúc này tôi sẽ mua nhà". Sau đó, Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam cho biết, trong số 180.000 tỷ đồng đầu tư công dành riêng cho năm 2012, Chính phủ mới dùng 60.000 tỷ đồng. Vì thế trong 7 tháng còn lại của năm, 120.000 tỷ đồng nữa sẽ được bơm vào thị trường. Theo ông Nam, gói đầu tư công, cộng thêm 38.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, tạm ứng trước vốn năm 2013 thì trong 7 tháng cuối năm thị trường có thể đón nhận khoảng 200.000 tỷ đồng. Vì thế, Thứ trưởng Nam hy vọng, dòng tiền này khi được lưu thông chắc chắn sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến nhiều ngành nghề khác, trong đó có địa ốc.
Lãnh đạo Bộ Xây dựng dự báo thêm, nền kinh tế còn có dòng tiền trong dân đang đầu tư vào vàng, USD, gửi tiết kiệm. Tiền của người dân sớm muộn cũng sẽ chảy vào bất động sản khi lãi suất hạ nhiệt và các kênh đầu tư còn lại bắt đầu mất dần tính hấp dẫn. Như vậy, trực tiếp và gián tiếp, tổng cộng gói cứu trợ BĐS có thể lên đến 400 ngàn tỷ đồng (20 tỷ USD).
Những hệ quả xa gần
Tôi không biết có bao nhiêu đại gia BĐS trên toàn quốc đang "đắp chiếu"? Con số chắc không hơn vài ngàn. Dĩ nhiên, nếu giá BĐS xuống quá thấp thì các đại gia ngân hàng, chứng khoán và các nhà đầu cơ thứ cấp cũng bị vạ lây, vì như ông Lê Mạnh Hà (Phó chủ tịch UBND TP.HCM) đã công nhận, giá BĐS là tiền đề cho bài toán kinh tế và chính trị của Việt Nam. Nhưng mọi người dân sẽ phải chịu chung những hệ quả xấu tốt, xa gần mà giải pháp cứu trợ này sẽ đem lại:
Khi một số tiền khủng như vậy đổ vào thị trường BĐS thì ảnh hưởng trên giá cả sẽ phải có, dù chỉ tạm thời. Bong bóng sẽ không nổ tung vào cuối 2012 như nhiều người tiên đoán vì Chính phủ đang hết sức thổi hơi cho BĐS. Nhưng một căn nhà mơ ước cho đại đa số người dân sẽ vẫn nằm ngoài tầm tay trong 5, 10 năm tới vì mức giá vẫn là một ảo tưởng dựng lên bởi những thế lực ngoài thị trường. Con bệnh sẽ trầm trọng hơn vì cuộc giãi phẩu cần thiết đã được dời lại cho đến khi không còn gì để mổ trong đợt điều chỉnh sẽ đến.
Cái giá phải trả (không có bữa ăn nào miễn phí) cho lượng tiền 400 ngàn tỷ trong một thời gian ngắn là giá trị thực sự của đồng tiền VN sẽ phải giảm dù tỷ giá chính thức có thể được duy trì qua các biện pháp hành chính. Để tránh lạm phát phi mã, chính phủ sẽ phải thực hiện việc kiểm soát giá cả trên một bình diện sâu rộng. Ngoài xăng dầu, gạo, điện nước... , các món hàng như dược phẩm, vận chuyển công cộng, các hàng tiêu dung thông dụng... sẽ không được tăng giá. Đây là một bước lùi khá sâu cho nền kinh tế thị trường.
Trong môi trường của nền kinh tế chỉ huy, các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu kiếm lời (profit-seeking) sẽ khổ sở vì chi phí tăng mà giá bán bị kiểm soát chặt chẽ. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước hay các công ty có liên hệ sâu xa với nhà nước sẽ có hai vũ khí bén nhọn: đặc quyền và tiền người khác (OPM) qua ngân hàng. Mô hình kinh doanh thâu tiền chỗ này (rent-seeking) sẽ lên ngôi và sẽ có thêm một loạt đại gia mới là bản sao của các đại gia hiện hữu.
Trên hết, khi hy sinh quyền lợi của đại đa số người dân để cứu vài nhóm lợi ích, và những "sai trái về đầu tư sẽ được bảo vệ". Người Mỹ gọi đây là một "rủi ro về đạo đức" (moral hazard) và sẽ khuyến khích những hành xử tương tự trong tương lai.
Sau 2 gói kích cầu rưỡi và gần 2.000 tỷ đô la trong 3 năm qua, Cơ quan Dự trữ Trung ương Mỹ (FED) đã thất bại trong việc giảm tỷ lệ thất nghiệp hay kích cầu một nền kinh tế tư nhân và năng động của Mỹ. Thành quả duy nhất họ có thể hãnh diện là cứu nguy và tạo lợi nhuận khủng cho các ngân hàng thương mại. Dự đoán lạc quan nhất là GDP Mỹ sẽ tăng trưởng khoảng 2% trong năm nay. Dù không thể bị thay thế, đồng USD vẫn chịu nhiều áp lực vì nợ công tăng vọt sau các gói kích cầu này.
Khi đối diện với khủng hoảng, cá nhân con người hay doanh nghiệp hay bộ máy công quyền thường chọn một trong hai phản ứng: hoặc sửa đổi toàn diện để thích nghi với hoàn cảnh mới; hoặc quay về với những thói quen xưa cũ mà họ cho rằng đã giúp họ đạt được quyền và lợi hiện nay. Tôi đoán là các thế hệ trẻ sẽ phải chờ thêm vài ba thế hệ nữa.
Alan Phan
Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012
Tiền ở đâu, lạm phát ở đâu?
Thực ra bản chất của lạm phát tại VN chủ yếu là do chi phí đẩy + cầu kéo và sự lũng đoạn thị trường do độc quyền. Khi cầu xuống thấp thì sự độc quyền không phát huy được tác dụng làm tăng giá, mà chỉ có tác dụng giữ giá không tăng. Nếu có cạnh tranh sòng phẳng, thì sẽ theo quy luật kinh tế, cầu giảm thì giá giảm.
Khi đã có 1 lượng lớn tiền được bơm ra nền kinh tế, lượng cầu vẫn không tăng nghĩa là tiền này không đến tay đại bộ phận người tiêu dùng, và đặc biệt là không bị đưa vào sản xuất. Khi sản xuất không tăng (giảm), lương và thu nhập NLĐ cũng không tăng (giảm), dẫn đến cầu ko tăng (giảm). Do đó, có nghịch lý là tiền bơm ra quá nhưng giá cả lại không tăng. Vậy tiền đó đang ở đâu? Nó chỉ ở trong NH và trong tài khoản của số ít đại gia vốn dĩ vẫn chi tiêu đều đều như chẳng có chuyện gì xảy ra và họ không làm tăng lạm phát được.
Vậy, tiền trong NH dư thừa sao không đẩy mạnh cho vay bằng lãi suất thấp hơn? Vì họ còn phải bù đắp cho khoản nợ xấu quá lớn trong các khoản đã cho vay trước đây, và trả lãi (và gốc) cho những người gửi tiền với mức lãi khá cao, hoặc có thể phải dành tiền trả cho các món họ đã vay nợ lẫn nhau trước đây.
Có thể tham khảo ở đây: Vì sao NH thừa tiền nhưng không cho vay?
Còn 1 góc nhìn nữa: họ có cần cho các DNTN vay với gia trị vài tỷ, vài chục tỷ trong khi các DN này hiện nay chưa chứng minh được khả năng trả tiền hiệu quả trong khi họ đang có những con nợ được đảm bảo bởi chính phủ vay với số tiền ngàn tỷ, chục ngàn tỷ, thậm chí trăm ngàn tỷ đã đảm bảo chỉ tiêu lợi nhuận của họ? Chỉ có những ngân hàng TMCP không thể cho DNNN vay tiền mới phải trầy trật kiếm các khách hàng vay tiền là DNTN, và đối diện với nguy cơ mất thanh khoản.
Thấy gì qua "sự hiểu lầm" khiến Đan Mạch dừng cấp ODA?
Có hiểu lầm khiến Đan Mạch ngừng cấp ODA
Cả 4 đơn vị quản lý dự án đều khẳng định “không có tham nhũng, thất thoát” khi sử dụng vốn ưu đãi của Chính phủ Đan Mạch, mà có thể kiểm toán quốc tế chưa hiểu quy trình và thực tế dự án tại Việt Nam.
Ông Lâm là điều phối viên dự án P2-08-VIE - Biến đổi khí hậu và các hệ sinh thái vùng cửa sông Việt Nam,
dự án bị kiểm toán cho là chi sai 1,3 tỷ đồng với 5 nghi vấn về chi trả
bảo hiểm, thuê tư vấn, mua thiết bị, chi phí quản lý và đặc biệt là
chuyện học bổng của chính con gái ông Lâm. Chuyên gia này cho biết ông
và các đồng sự muốn giải trình về cả 5 vấn đề này.
............
“Không có sự tham nhũng hay thất thoát” cũng là khẳng định của một lãnh đạo Viện Địa lý, nơi quản lý dự án P1-08-VIE - Đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến điều kiện tự nhiên, môi trường và phát triển kinh tế - xã hội miền Trung.
Đây là dự án có số tiền nghi chi sai lớn nhất, 5,4 tỷ đồng. Ông này cho
biết không tán thành đối với một số thông tin mà kiểm toán đưa ra (chủ
yếu về chi lương, thù lao, học bổng... không rõ ràng, mua xe nhưng ít sử
dụng) và sẽ có buổi làm việc với Bộ Khoa học & Công nghệ, Tổ kiểm
toán và Sứ quán Đan Mạch giữa tuần này đề làm rõ vấn đề.
Tuy không bị dừng cấp vốn do số tiền nghi sai phạm
(gần 300 triệu đồng) không đáng kể so với toàn bộ quy mô nhưng theo đại
diện đơn vị điều phối dự án 09-P01-VIE - Cải
thiện giống lúa thích nghi với điều kiện ngập mặn để đối với tình trạng
nước biển dâng cho các vùng đồng bằng ven biển Việt Nam, cũng tỏ ra không đồng tình với kết luận của kiểm toán.
Trước đó, theo trao đổi của đại diện cơ quan quản lý dự án 09-P03-VIE - Tác động của biến đổi khí hậu đến biến đổi sử dụng đất và sinh kế cộng đòng ở đồng bằng sông Hồng với Tuổi trẻ, nhiều điểm khác biệt trong tính toán của 2 bên cũng đã được chỉ ra. “Chúng tôi đã hoàn thành xong báo cáo giải trình. Trong phiên đối chất giữa tuần tới, chúng tôi muốn nhấn mạnh những điểm này”. Ngoài ra, đại diện này cũng cho biết dự án sẽ tiếp tục được hoàn thành cho dù phía đối tác có tiếp tục cấp vốn hay không.
-------------------------------------
Đây đều là những dự án đúng ra chính phủ nước CHXHCNVN phải làm vì lợi ích của nhân dân, những ông bà chủ của những cán bộ. Thế mà, phía nước bạn - Đan Mạch đã phải nhảy vào chủ động giúp đỡ, cấp tiền, tạo điều kiện cho các nhà kha hoọc của ta ngâm kíu. Thế mà để xảy ra tình trạng như trên.
Những người làm công tác khoa học, đối với các dự án mang tính yêu nước cao, mà họ đã không thể hiện được tầm nhìn tốt ít nhất trong vấn đê ngoại giao thì ko thể gọi là nhà khoa học được. Không cần bàn luận nhiều về việc Đan Mạch có đúng hay sai, rõ ràng tư duy khoa học như vậy thì ko thể làm khoa học. Một đất nước đã quá mục rỗng, mục rỗng trong mọi mặt.
Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012
Thế cùng đường của nhóm lợi ích ngân hàng?
Source
Những ngày gần đây, thế cùng đường của ngân hàng càng hiển hiện hơn khi chính họ đã phải lên tiếng kêu cứu.
Ứ vốn và nợ xấu trên mức báo động
Những ngày gần đây, thế cùng đường của ngân hàng càng hiển hiện hơn khi chính họ đã phải lên tiếng kêu cứu.
Ứ vốn và nợ xấu trên mức báo động
Đặt vấn đề về thế cùng đường của nhóm lợi ích ngân hàng trong bối cảnh hiện nay - e rằng vẫn có vẻ khá khiên cưỡng, khi nhóm này vẫn tiêu biểu cho lực lượng trội nhất về tiềm lực vốn, tài sản, lợi nhuận và thế nắm dao đằng chuôi trong toàn bộ các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhưng cũng khó nêu ra câu hỏi nào khác hơn khi bản thân nhóm ngân hàng lại đang sa chân vào một ma trận - hệ quả do chính họ gây ra cho đến giờ này.
Đã quá rõ là sau ba tháng liên tiếp với ba lần giảm trần lãi suất huy động, tình hình vẫn hầu như chưa có gì biến chuyển. Tiền vẫn nằm ứ trong ngân hàng, còn đại đa số doanh nghiệp vẫn chưa thể "tiếp cận được nguồn vốn vay giá rẻ". Những con số thống kê muộn màng vế tỷ lệ khoảng 30% doanh nghiệp đã được vay vốn với mức lãi suất ưu đãi 15% trong mấy tháng qua thực ra chỉ mang tính tượng trưng, trong khi lại không hề xuất hiện một thống kê nào cho thấy lượng vốn được giải ngân từ ngân hàng cho doanh nghiệp là bao nhiêu. Trong khi đó, một số ngân hàng đã xác nhận tỷ lệ giải ngân từ các gói cho vay ưu đãi của họ chỉ đạt khoảng 3-5% so với kế hoạch đề ra. Tức thực tế giải ngân là quá nhỏ bé so với chủ đích ban đầu.
Còn con số vốn nằm "chết" trong hệ thống ngân hàng cho tới nay là bao nhiêu? Cũng không có (và dường như điều này trở thành tất nhiên) một thống kê nào từ phía cơ quan chủ quản là Ngân hàng nhà nước. Song vào ngày cuối tháng 5/2012, từ một cuộc họp của cơ quan này với nhóm G14, một dự kiến được nêu ra là sẽ thành lập tổ chức chuyên mua bán nợ xấu giữa các ngân hàng với số vốn điều lệ lên đến 100.000 tỷ đồng.
Con số 100.000 tỷ đồng này lại có một nét gì đó khá tương đồng với những đồn đoán trước đó về chuyện có đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, nếu không muốn nói là hơn thế, tiền mặt đang bất động trong khu vực ngân hàng mà không thể đưa vào lưu thông được.
Cũng trong cuộc họp trên, con số về số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng nhà nước đã vượt quá quy định 40.000 tỷ đồng hẳn phải minh chứng cho câu chuyện thừa vốn dài hạn mà không biết làm gì cả.
Điều được gọi là "gót chân Asin" của ngân hàng cũng chính thức lộ ra.
Không chỉ là núi tiền mặt khồng lồ bị giam châm trong hệ thống này, mà tình trạng nợ xấu đã phát triển đến mức cần phải có những biện pháp "quyết liệt" nhằm kiềm chế, trước khi mọi chuyện trở nên không thể kiểm soát.
Vào cuối năm 2011, Agribank đã bị đánh giá là một ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu thuộc loại nguy hiểm nhất - trên 6%. Nhưng chỉ sau quý 1/2012, khi bản sơ kết tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trở nên thê thảm, nợ xấu của các ngân hàng cũng "bỗng dưng" tăng vọt. Eximbank, Vietinbank, BIDV, Vietcombank... đều là những ngân hàng đã làm ngạc nhiên nhiều khách hàng và cổ đông khi tỷ lệ nợ xấu trở nên xấu đi một cách lạ lùng, tăng gấp 50-60% so với cùng kỳ năm ngoái.
Thế nhưng tỷ lệ nợ xấu trên vẫn chưa có gì được coi là xác thực, nếu người ta tham chiếu cách tính toán của... Fitch Ratings. Vào giữa năm 2011, trong khi Ngân hàng nhà nước Việt Nam đưa ra tỷ lệ nợ xấu trong toàn bộ hệ thống ngân hàng chỉ hơn 3%, thì tổ chức xếp hạng tín dụng có tiếng trên trường quốc tế này đã bảo lưu tỷ lệ tương tự ở Việt Nam là 13%. Tức gấp 4 lần con số công bố!
Còn vào giờ này, với những gì mà các ngân hàng thương mại cổ phần đã bắt buộc phải công bố (và cả tự nguyện như một hành động kêu cứu), người ta lại có thêm cơ sở để suy diễn khả năng nợ xấu thực tế không phải chỉ là con số thống kê.
Thế cùng đường
Thế khó khăn của ngân hàng đã khá nhanh chóng biến thành thực tại nan giản. Nếu vào cuối năm 2011, họ có thể tung ra cơ chế cho vay doanh nghiệp với mức lãi suất 17-18% kèm theo những điều kiện cho vay không quá khắt khe mà vẫn có thể đạt được phần nào kết quả, thì sau quý 1 năm nay, tình hình đã biến chuyển tiêu cực đến khó hiểu. Thêm ít nhất 17.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh phá sản và giải thể (theo con số thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cùng dự báo của chính cơ quan này về khoảng 50.000 doanh nghiệp biến mất trong năm 2012, đã làm cho tình thế không còn nằm trong vòng kiểm soát của nhóm lợi ích ngân hàng. Vốn cho vay, dù được tha thiết mời mọc đến thế nào chăng nữa, đã không còn trở nên hấp dẫn đặc biệt đối với những kẻ đói khát.
Minh chứng cho hiện tượng cung vốn quá thiên lệch so với cầu vốn như trên là cơ chế giảm trần lãi suất huy động theo kiểu nhỏ giọt. Tháng 3/2012 là thời điểm đầu tiên mà Ngân hàng nhà nước tiến hành giảm trần lãi suất huy động từ 14% về 13%, nhưng có vẻ miễn cuỡng hơn là một thái độ chủ động. Khi đó, các ngân hàng vẫn còn làm cao và ngoài Vietcombank, BIDV, vẫn chẳng thấy hiện diện những gói kích cầu ưu đãi nào khác. Nhưng những gì mà giới ngân hàng hình dung rằng doanh nghiệp - trong thảm cảnh khát vốn, sẽ "bập" ngay vào vốn vay ngân hàng khi lãi suất huy động giảm, đã không hề xảy ra. Một tháng sau đó, khi trần lãi suất huy động giảm tiếp về 12%, tỷ lệ vốn giải ngân khỏi ngân hàng cũng không tăng hơn được bao nhiêu.
Cực chẳng đã, vào trung tuần tháng 5/2012, Ngân hàng nhà nước đã phải tiến hành một cuộc "cách mạng" chưa có tiền lệ từ khi Chính phủ mới được thành lập vào tháng 8/2011: vừa hạ tiếp trần lãi suất huy động lần thứ ba liên tiếp về 11% và do đó đã phá vỡ "lộ trình giảm lãi suất huy động 1% mỗi quý" mà thống đốc Nguyễn Văn Bình đã thường tuyên bố, đồng thời còn tiến hành áp trần lãi suất cho vay ưu đãi ở mức 15%. Song toàn bộ giới doanh nghiệp vẫn thờ ơ. Đến lúc này, giới phân tích đành phải nêu ra một luận lý: không phải doanh nghiệp không muốn vay, mà là họ không còn khả năng vay.
Có vẻ như cuộc khủng hoảng niềm tin vẫn chưa có điểm dừng. Trong cách nhìn của phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa, nền kinh tế nhiều khả năng vẫn chưa thoát khỏi đáy, hay nói cách khác là chưa lập đáy. Vô số khó khăn về tín dụng và cơ chế vẫn chờ đợi ở phía trước. Hơn nữa, trong một nền kinh tế mà sức cầu đang hướng dần vào thế thiểu phát, hàng tồn kho chất cao và ngay cả tiểu thương cũng phải bỏ chợ, chẳng mấy doanh nghiệp đủ can đảm để hoạch định một tương lai trung hạn cho mình bằng cách đi vay vốn và ngay lập tức bị biến thành con nợ bất đắc dĩ.
Khủng hoảng niềm tin kinh tế và tiêu dùng cũng dẫn tới khủng hoảng xác tín về tín dụng. Chính sách bất cập và thiên hẳn về nhóm lợi ích ngân hàng của Ngân hàng nhà nước, như đã được bày tỏ suốt nhiều tháng trời qua, đã khiến cho các doanh nghiệp không thể tin rằng họ sẽ được sống trong một môi trường lãi suất cho vay ổn định, hơn nữa càng khó có thể vay được vốn với mức lãi suất 12-13%, khi chính một chuyên gia đầy kinh nghiệm trong ngành tài chính là ông Lê Xuân Nghĩa đã buộc phải nói thẳng ra là các ngân hàng đã chỉ "giả vờ" cứu doanh nghiệp. Ở một chiều kích khác, một số doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng phải trần tình là họ sẽ không bị "mắc lừa" ngân hàng thêm một lần nữa.
Đạo lý quan hệ kinh doanh giữa ngân hàng và doanh nghiệp cũng vì thế mà xấu đi. Có thể gọi đó là gì, sau cái chết của nhiều doanh nghiệp và triển vọng tiếp nối của nhiều doanh nghiệp khác? Thế đường cùng của ngân hàng - hẳn là thế, khi nhóm lợi ích này đang phải rước lấy một hậu quả không đáng có: bị cộng đồng doanh nghiệp và cả xã hội "tẩy chay".
Những ngày gần đây, thế cùng đường của ngân hàng càng hiển hiện hơn khi chính họ đã phải lên tiếng kêu cứu.
Vốn huy động vẫn vào đều đặn và lãi vẫn phải trả đều đặn cho khách hàng, nhưng vốn cho vay lại không thể triển khai được. Cứ đà này, chẳng mấy chốc ngân hàng sẽ từ hòa đến âm vốn. Và nếu không cẩn thận, thời điểm cuối năm 2012 này sẽ chứng kiến những ngân hàng đầu tiên báo lỗ - lỗ thực sự chứ không phải như động tác "chia sẻ" cảnh ngộ với các doanh nghiệp.
---------------------------------------------------
Bình luận: Thực sự thì góc nhìn của tác giả đã được thể hiện hết qua cách viết bài như trên hay chưa?
Sử dụng tư duy phân tích độc lập, đối với các vấn đề của ngân hàng, ta cần đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi sau:
Tỷ lệ nợ xấu thực tế cao, trong khi các NH có thể báo cáo tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều thực tế, đó là do sự khác nhau về chuẩn đánh giá nợ xấu. Vậy thì sự khác nhau này đem lại sự khác biệt trong cách đánh giá nợ xấu của nhóm cho vay nào?
Khi lãi suất (LS) cho vay quá cao, lãi xuất huy động cũng cao, nếu NH chỉ thực sự kiếm tiền nhờ vào sự chênh lệch giữa LS tiền gửi vào LS tiền cho vay, thì tại sao họ đã không chủ động hạ cả 2 loại này xuống?
NH có khả năng cứu DN ko? Cái gọi là "giả vờ" của ông Lê Xuân Nghĩa có đúng không? Chắc chắn các NH sẽ nhận thức rõ hơn ông Nghĩa nhiều lần về việc họ cần phải nuôi DN để các DN tiếp tục trả được nợ cho họ, do vậy, họ không "giả vờ". Vì họ không "giả vờ" nên có thể hiểu là họ không thể làm được dù rất muốn "cứu" DN. Ta cần đặt câu hỏi là tại sao họ không thể cứu DN?
Thực ra, trong việc phân tích ngành NH, chúng ta không thể nói chính xác khi chỉ dựa vào suy đoán, tuy nhiên, những suy đoán mang tính định hướng dựa trên các sự kiện thực tế có thể sẽ chính xác. CÓ thể câu trả lời là: do nợ xấu quá cao, dẫn đến tính thanh khoản của NH quá thấp, do vậy họ không thể giảm LS huy động và không thể tiếp tục cho vay với số lượng quá nhiều. Trong trường hợp này, họ thà giữ LS cao và chờ NHNN cứu còn hơn là hạ LS và mọi chuyện bung bét hết ra.
Cái mấu chốt như nhiều chuyên gia đã nhận định, là nó nằm ở BDS. Cuộc giải cứu BDS của nhà nước sẽ đem lại ánh sáng cuối đường hầm cho cả hệ thống NH, và đó là 1 biện pháp duy nhất để cứu được hệ thống này. Một lần nữa, và có thể là sẽ luôn luôn theo 1 định luật: các ông lớn luôn giành phần thắng.
Đó cũng chính là lý do mọi đảng phái, mọi nhóm lợi ích trên thế giới này đều luôn muốn giành quyền lãnh đạo quốc gia, và có thể là cả thế giới.
Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012
BS Hồ Hải: Đâu là bản sắc văn hóa Việt
Bài viết quá hyay, xin trích dẫn từ Blog BS Hồ Hải
Hôm trước có bạn làm kinh doanh hỏi: "Đâu là bản sắc văn hoá Việt Nam?". Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏi này. Hôm nay thấy tạm ổn, nên viết bài để trả lời. Một bài trả lời đáng giá với một chai XO, như lời hứa của bạn ấy. Là vì kinh doanh mà không nắm rõ bản chất văn hoá của một dân tộc, lại đem chuông đi đánh xứ người, khác nào đánh vào khoảng không vô tận. Nên văn hoá không chỉ quyết định sự phát triển, mà văn hoá còn rất quan trọng trong tất cả các mặt của cuộc sống hiện đại.
Đứng về mặt học thuật, văn hoá thế giới chia làm hai loại hình văn hoá du mục và nông nghiệp dựa trên cơ sở phân loại duy lý hay duy tình trong cách tư duy và hành động của cộng đồng dân. Cũng trên cơ sở phân loại ấy, người ta thấy rằng không có một nền văn hoá nào là đồng nhất duy tình hay duy lý. Mà đã có sự pha trộn văn hoá trong quá trình giao lưu văn hoá của các nền văn minh khác nhau thông qua quá trình di dân, chiếm cứ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Cho nên để nhìn ra bản sắc văn hoá của một dân tộc là một điều khó. Dù khó, nhưng nếu dựa trên duy vật luận: "Từ thực tiển khách quan đi vào tư duy trừu tượng. Rồi từ tư duy trừu tượng đem áp dụng vào thực tiển khách quan. Đó là con đường nhận thức chân lý, chân lý khách quan". Chúng ta có thể nhìn thấy được đâu là bản sác văn hoá Việt.
Trên khái niệm văn hoá là thói ăn, nết ở, thuần phong mỹ tục được hình thành và phát triển định hình nên tư duy và hành động của một cộng đồng dân sống trong một vùng địa lý dưới những hình thái xã hội khác nhau. Có thể nhận ra hai loại bản sắc văn hoá Việt rõ ràng, thứ nhất là bản sắc đặc thù của văn hoá Việt hình thành do quá trình lịch sử. Thứ hai là, bản văn văn hoá Việt do ảnh hưởng của sự giao thoa văn hoá thông qua lịch sử dân tộc Việt. Chúng ta thử đi vào từng phần của bản sắc văn hoá Việt.
Ở phần thứ nhất, nét đặc thù đầu tiên của văn hoá Việt là chiến tranh dựng và giữ nước. Hơn một nửa thời gian lịch sử dân tộc Việt là một lịch sử chiến tranh, ngày nay ai cũng rõ. Chiến tranh của người Việt có 2 đặc thù: giữ nước và mở cõi. Từ đó, cách tư duy và hành động của người Việt trông bề ngoài là vẻ hiền lành, chất phát, có nụ cười luôn trên môi đi tiếp xúc. Nhưng trong bản chất là một sự bùng nổ những lề thói có bản chất chiến tranh giữ và cơi nới. Ngày này, từ trong khẩu hiệu của tấm băng rôn trong các lễ hội cũng có không khí chiến tranh, ví dụ như: "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại". Học cái gì tốt đẹp hơn mà lại phải học chiến đấu? Dĩ nhiên chữ chiến đâu ở đây, không phải ý nói là chiến tranh, mà ý muốn nói sự phấn đấu. Nhưng thay vì sự phấn đấu thì văn hoá bản sắc của chiến tranh làm cho người ta hình tượng hoá sự phấn đấu lên thành từ chiến đấu.
Chúng ta dễ dàng bắt gặp rất nhiều ví dụ cụ thể về bản sắc văn hoá chiến tranh này của dân Việt trong đời sống hằng ngày. Như lái xe ra đường không theo qui định, mà mạnh ai nấy lấn đường làm ách tắc giao thông. Như nhà đã có lề, đường đã có lề, nhưng buôn bán luôn cơi nới ra khỏi lề, xây nhà vẫn thêm hàng rào hay một chút diện tích để lấn lề, v.v...
Đặc biệt, bản chất của chiến tranh mở cõi là thuộc về nền văn hoá du mục, nhưng nó lại được đặt trong một cộng đồng có số đông sống theo văn hoá nông nghiệp. Nên nó có những mâu thuẩn nội tại xung đột trong cách ứng xử văn hoá sống có tính triệt tiêu hơn là thúc đẩy để phát triển đi lên. Vì duy tình không giải quyết thấu đáo vấn đề, mà chỉ theo cảm tính. Trong khi duy lý thì triệt để và sắt máu. Chính vì thế mới có câu chuyện 3 người Việt cùng làm việc thua 3 người Nhật. Và vì thế mới có câu chuyện đám đông vô thức của người Việt rất dễ định hướng đi theo một chiều tư tưởng, dù tư tưởng ấy là cực đoan và phi lý.
Nếu các nhà kinh doanh nắm bắt được bản sắc văn hoá này trong tâm hồn người Việt, họ rất dễ dàng giao thương và chiếm thế thượng phong trong công việc, dù mưu đồ của họ là không trong sáng.
Vấn đề thứ hai trong bản sắc đặc thù văn hoá Việt là, thờ cúng tổ tiên. Có lẽ không ở nơi đâu trong văn hoá nhân loại việc thờ cúng tổ tiên được nâng lên thành một đạo sống làm người như dân tộc Việt. Đến một gia đình bất kỳ, nếu khéo léo, đối tác xin phép thắp cây nhang lên bàn thờ tổ tiên là đánh đúng vào cái văn hoá duy tình trong giao tiếp. Qua nhiều thời đại, các chính khách cũng tận dụng nét đặc thù văn hoá này để định hướng lòng dân. Câu chuyện con rùa hồ Gươm, hay lễ hội đền Trần, v.v... cũng là một biểu hiện cụ thể cho nét văn hoá đặc thù này.
Vấn đề thứ ba của bản sắc đặc thù văn hoá Việt là, văn hoá ẩm thực. Vì quá trình lịch sử mở cõi, lấy ẩm thực làm vị thuốc để chống chọi với bệnh tật ở chốn rừng thiêng nước độc. Nên ẩm thực Việt rất khoa học về mặt dinh dưỡng học lâm sàng: "Ăn là thuốc, ăn đúng là trị bệnh, ăn sai là rước bệnh vào mình". Hãy nhìn cách ăn uống của bác nông dân rất khoa học: sáng sớm trước khi ra đồng ăn thật no, nhưđổ xăng cho xe chuẩn bị đi làm, ăn trưa nhiều để làm việc tiếp, ăn tối vừa phải cho một đêm nghỉ ngơi. Trong các mốn ăn Việt cũng nhiều tinh bột, rau xanh và chất đạm, nhưng mỡ thì vừa phải giống như một tháp dinh dưỡng trong y học. Ngoài ra, rau xanh Việt không thiếu các vị thuốc như: giá cường dương, rau răm hãm dương, v.v... Các món ăn cũng phối hợp rất khoa học triết lý phương Đông: ăn hột vịt lộn phải ăn với rau răm và muối tiêu. Để liệt kê hết tất cả khoa học ẩm thực Việt thì rất nhiều.
Ở phần còn lại, những bản sắc văn hoá khác, không là đặc thù của người Việt mà là, do sự giao lưu văn hoá mà thành. Trong giao lưu văn hoá ấy có sự giao thoa, sự sao chép nguyên bản rất đa dạng. Ví như, nho giáo với tam cương, ngũ luân một thời gian dài nghìn năm sao y bản chính. Phật giáo là giao thoa văn hoá từ nguyên gốc Ấn độ và nho giáo của Trung Hoa mà thành. Nên phật giáo Việt Nam đỉnh cao được xem là thiền tông, nhưng nhuốm màu mật tông trong thực hành trong cuộc sống.
Tất cả những sự giao thoa và sao y ấy đều có cùng mục đích là phục vụ cho lịch sử hình thành và phát triển địa lý, giống nòi của dân tộc Việt từ Thuỷ Chân Lạp để có bờ cõi như ngày hôm nay. Nó giúp cho tránh được sự đồng hoá của người Trung Hoa phương Bắc mà tạo ra sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt, không bị mất đi, mà ngày càng phát triển về phương Nam.
Trong tất cả những ưu điểm từ giao lưu văn hoá ấy, có một ưu điểm nổi bật của dân Việt là rất biết sống hợp thời khi lịch sử đòi hỏi. Sự thức thời ấy thể hiện qua 2 lần thay đổi chữ viết để thoát Á: lần đầu là thời nhà Tây Sơn, nhờ có La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp kế thừa và phát triển chữ Nôm thay thế cho chữ Hán. Và thời thuộc Pháp có các nhà văn hoá Tự Lực Văn Đoàn đã tiếp sức các vị Linh mục làm ra chữ quốc ngữ ngày nay theo mẫu tự La Tinh cho một ngôn ngữ đơn âm tiết. Một nét văn hoá hiếm thấy ở Chấu Á.
Trong những nhược điểm của giao lưu văn hoá để lại cho dân Việt, thì nhược điểm lớn nhất là sức đấu tranh nội tại của văn hoá du mục duy lý không thắng được văn hoá nông nghiệp duy tình. Nên văn hoá sống dân Việt làm lùn đi dân trí khi đứng trước một sự vật hiện tượng, không được nhìn duy lý triệt để mà, mà được nhìn bằng tư duy duy tình cảm tính nửa vời. Cái nửa vời ấy thể hiện từ tư duy đến hành động thông qua hình thái xã hội qua bao đời.
Để có được một dân tộc và đất nước hùng cường, không gì khác hơn người Việt cần hiểu biết văn hoá đặc thù của mình ở đâu, và kết quả của giao lưu văn hoá ở đâu? Đâu là tinh hoa của 2 miền văn hoá và biết sửa mình. Nếu không lịch sử sẽ lập lại những mảng tối cho đất nước và dân tộc lắm khổ nhục này.
Hôm trước có bạn làm kinh doanh hỏi: "Đâu là bản sắc văn hoá Việt Nam?". Mình suy nghĩ hơn một tháng và lục hết tất cả tàng kinh cát để đi tìm bản chất của câu hỏi này. Hôm nay thấy tạm ổn, nên viết bài để trả lời. Một bài trả lời đáng giá với một chai XO, như lời hứa của bạn ấy. Là vì kinh doanh mà không nắm rõ bản chất văn hoá của một dân tộc, lại đem chuông đi đánh xứ người, khác nào đánh vào khoảng không vô tận. Nên văn hoá không chỉ quyết định sự phát triển, mà văn hoá còn rất quan trọng trong tất cả các mặt của cuộc sống hiện đại.
Đứng về mặt học thuật, văn hoá thế giới chia làm hai loại hình văn hoá du mục và nông nghiệp dựa trên cơ sở phân loại duy lý hay duy tình trong cách tư duy và hành động của cộng đồng dân. Cũng trên cơ sở phân loại ấy, người ta thấy rằng không có một nền văn hoá nào là đồng nhất duy tình hay duy lý. Mà đã có sự pha trộn văn hoá trong quá trình giao lưu văn hoá của các nền văn minh khác nhau thông qua quá trình di dân, chiếm cứ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Cho nên để nhìn ra bản sắc văn hoá của một dân tộc là một điều khó. Dù khó, nhưng nếu dựa trên duy vật luận: "Từ thực tiển khách quan đi vào tư duy trừu tượng. Rồi từ tư duy trừu tượng đem áp dụng vào thực tiển khách quan. Đó là con đường nhận thức chân lý, chân lý khách quan". Chúng ta có thể nhìn thấy được đâu là bản sác văn hoá Việt.
Trên khái niệm văn hoá là thói ăn, nết ở, thuần phong mỹ tục được hình thành và phát triển định hình nên tư duy và hành động của một cộng đồng dân sống trong một vùng địa lý dưới những hình thái xã hội khác nhau. Có thể nhận ra hai loại bản sắc văn hoá Việt rõ ràng, thứ nhất là bản sắc đặc thù của văn hoá Việt hình thành do quá trình lịch sử. Thứ hai là, bản văn văn hoá Việt do ảnh hưởng của sự giao thoa văn hoá thông qua lịch sử dân tộc Việt. Chúng ta thử đi vào từng phần của bản sắc văn hoá Việt.
Ở phần thứ nhất, nét đặc thù đầu tiên của văn hoá Việt là chiến tranh dựng và giữ nước. Hơn một nửa thời gian lịch sử dân tộc Việt là một lịch sử chiến tranh, ngày nay ai cũng rõ. Chiến tranh của người Việt có 2 đặc thù: giữ nước và mở cõi. Từ đó, cách tư duy và hành động của người Việt trông bề ngoài là vẻ hiền lành, chất phát, có nụ cười luôn trên môi đi tiếp xúc. Nhưng trong bản chất là một sự bùng nổ những lề thói có bản chất chiến tranh giữ và cơi nới. Ngày này, từ trong khẩu hiệu của tấm băng rôn trong các lễ hội cũng có không khí chiến tranh, ví dụ như: "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại". Học cái gì tốt đẹp hơn mà lại phải học chiến đấu? Dĩ nhiên chữ chiến đâu ở đây, không phải ý nói là chiến tranh, mà ý muốn nói sự phấn đấu. Nhưng thay vì sự phấn đấu thì văn hoá bản sắc của chiến tranh làm cho người ta hình tượng hoá sự phấn đấu lên thành từ chiến đấu.
Chúng ta dễ dàng bắt gặp rất nhiều ví dụ cụ thể về bản sắc văn hoá chiến tranh này của dân Việt trong đời sống hằng ngày. Như lái xe ra đường không theo qui định, mà mạnh ai nấy lấn đường làm ách tắc giao thông. Như nhà đã có lề, đường đã có lề, nhưng buôn bán luôn cơi nới ra khỏi lề, xây nhà vẫn thêm hàng rào hay một chút diện tích để lấn lề, v.v...
Đặc biệt, bản chất của chiến tranh mở cõi là thuộc về nền văn hoá du mục, nhưng nó lại được đặt trong một cộng đồng có số đông sống theo văn hoá nông nghiệp. Nên nó có những mâu thuẩn nội tại xung đột trong cách ứng xử văn hoá sống có tính triệt tiêu hơn là thúc đẩy để phát triển đi lên. Vì duy tình không giải quyết thấu đáo vấn đề, mà chỉ theo cảm tính. Trong khi duy lý thì triệt để và sắt máu. Chính vì thế mới có câu chuyện 3 người Việt cùng làm việc thua 3 người Nhật. Và vì thế mới có câu chuyện đám đông vô thức của người Việt rất dễ định hướng đi theo một chiều tư tưởng, dù tư tưởng ấy là cực đoan và phi lý.
Nếu các nhà kinh doanh nắm bắt được bản sắc văn hoá này trong tâm hồn người Việt, họ rất dễ dàng giao thương và chiếm thế thượng phong trong công việc, dù mưu đồ của họ là không trong sáng.
Vấn đề thứ hai trong bản sắc đặc thù văn hoá Việt là, thờ cúng tổ tiên. Có lẽ không ở nơi đâu trong văn hoá nhân loại việc thờ cúng tổ tiên được nâng lên thành một đạo sống làm người như dân tộc Việt. Đến một gia đình bất kỳ, nếu khéo léo, đối tác xin phép thắp cây nhang lên bàn thờ tổ tiên là đánh đúng vào cái văn hoá duy tình trong giao tiếp. Qua nhiều thời đại, các chính khách cũng tận dụng nét đặc thù văn hoá này để định hướng lòng dân. Câu chuyện con rùa hồ Gươm, hay lễ hội đền Trần, v.v... cũng là một biểu hiện cụ thể cho nét văn hoá đặc thù này.
Vấn đề thứ ba của bản sắc đặc thù văn hoá Việt là, văn hoá ẩm thực. Vì quá trình lịch sử mở cõi, lấy ẩm thực làm vị thuốc để chống chọi với bệnh tật ở chốn rừng thiêng nước độc. Nên ẩm thực Việt rất khoa học về mặt dinh dưỡng học lâm sàng: "Ăn là thuốc, ăn đúng là trị bệnh, ăn sai là rước bệnh vào mình". Hãy nhìn cách ăn uống của bác nông dân rất khoa học: sáng sớm trước khi ra đồng ăn thật no, nhưđổ xăng cho xe chuẩn bị đi làm, ăn trưa nhiều để làm việc tiếp, ăn tối vừa phải cho một đêm nghỉ ngơi. Trong các mốn ăn Việt cũng nhiều tinh bột, rau xanh và chất đạm, nhưng mỡ thì vừa phải giống như một tháp dinh dưỡng trong y học. Ngoài ra, rau xanh Việt không thiếu các vị thuốc như: giá cường dương, rau răm hãm dương, v.v... Các món ăn cũng phối hợp rất khoa học triết lý phương Đông: ăn hột vịt lộn phải ăn với rau răm và muối tiêu. Để liệt kê hết tất cả khoa học ẩm thực Việt thì rất nhiều.
Ở phần còn lại, những bản sắc văn hoá khác, không là đặc thù của người Việt mà là, do sự giao lưu văn hoá mà thành. Trong giao lưu văn hoá ấy có sự giao thoa, sự sao chép nguyên bản rất đa dạng. Ví như, nho giáo với tam cương, ngũ luân một thời gian dài nghìn năm sao y bản chính. Phật giáo là giao thoa văn hoá từ nguyên gốc Ấn độ và nho giáo của Trung Hoa mà thành. Nên phật giáo Việt Nam đỉnh cao được xem là thiền tông, nhưng nhuốm màu mật tông trong thực hành trong cuộc sống.
Tất cả những sự giao thoa và sao y ấy đều có cùng mục đích là phục vụ cho lịch sử hình thành và phát triển địa lý, giống nòi của dân tộc Việt từ Thuỷ Chân Lạp để có bờ cõi như ngày hôm nay. Nó giúp cho tránh được sự đồng hoá của người Trung Hoa phương Bắc mà tạo ra sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt, không bị mất đi, mà ngày càng phát triển về phương Nam.
Trong tất cả những ưu điểm từ giao lưu văn hoá ấy, có một ưu điểm nổi bật của dân Việt là rất biết sống hợp thời khi lịch sử đòi hỏi. Sự thức thời ấy thể hiện qua 2 lần thay đổi chữ viết để thoát Á: lần đầu là thời nhà Tây Sơn, nhờ có La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp kế thừa và phát triển chữ Nôm thay thế cho chữ Hán. Và thời thuộc Pháp có các nhà văn hoá Tự Lực Văn Đoàn đã tiếp sức các vị Linh mục làm ra chữ quốc ngữ ngày nay theo mẫu tự La Tinh cho một ngôn ngữ đơn âm tiết. Một nét văn hoá hiếm thấy ở Chấu Á.
Trong những nhược điểm của giao lưu văn hoá để lại cho dân Việt, thì nhược điểm lớn nhất là sức đấu tranh nội tại của văn hoá du mục duy lý không thắng được văn hoá nông nghiệp duy tình. Nên văn hoá sống dân Việt làm lùn đi dân trí khi đứng trước một sự vật hiện tượng, không được nhìn duy lý triệt để mà, mà được nhìn bằng tư duy duy tình cảm tính nửa vời. Cái nửa vời ấy thể hiện từ tư duy đến hành động thông qua hình thái xã hội qua bao đời.
Để có được một dân tộc và đất nước hùng cường, không gì khác hơn người Việt cần hiểu biết văn hoá đặc thù của mình ở đâu, và kết quả của giao lưu văn hoá ở đâu? Đâu là tinh hoa của 2 miền văn hoá và biết sửa mình. Nếu không lịch sử sẽ lập lại những mảng tối cho đất nước và dân tộc lắm khổ nhục này.
Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012
Why China won't rule
Why China won't rule
Thực tế thì bài viết này của ông Robert Skidelsky chủ yếu xoay quanh các giá trị về tư tưởng chứ không phải phân tích về kinh tế, kỹ thuật, thương hiệu.
Về mặt tăng trưởng GDP, nếu Trung Hoa vẫn giữ phong độ phát triển là 8% 1 năm thì đến năm 2017 sẽ vươn lên đứng đầu thế giới. Chi tiêu quân sự cũng tăng trưởng mạnh theo tăng trưởng GDP. Nhờ đó, Trung Hoa được coi là có một sự trỗi dậy, và sự trỗi dậy này có khả năng làm Trung Hoa trở thành siêu cường mới của thế giới hay không? Nếu không thể là siêu cường mới, thì những động thái này mang hàm ý gì? Ẩn ý của tác giả bài viết này muốn nói lên điều gì?
Thực tế thì ngay trong blog này của BS Hồ Hải, đã có không ít bài viết về Trung Hoa với cái nhìn và đánh giá tương tự bài viết này, đó là những bất ổn nội tại của Trung Hoa, giá trị hình thái chính trị, giá trị tư tưởng của các chính khách mà có thể là của cả dân tộc chưa thoát khỏi tư tưởng Khổng Tử và Nho giáo. Có vẻ như những thực trạng và những giá trị văn hóa chính trị này mang lại sử nguy hiểm cho phần còn lại của thế giới hơn là mang lại cho thế giới 1 siêu cường mới với những trách nhiệm nhất định với thế giới (như Mỹ hoặc Liên Xô cũ). Hoặc có thể những động thái gần đây với thế giới bên ngoài chỉ là một cách để Trung Hoa giải quyết các mâu thuẩn nội bộ.
Tác giả bài viết nghiêng về giả thuyết này nhiều hơn: vừa giải quyết mâu thuẫn nội bộ vừa giải quyết ý chí Trung Hoa muốn sự tôn trọng của phần còn lại của thế giới.
Việc giải quyết mâu thuẫn nội bộ, có lẽ không cần nói nhiều hơn, nhưng tại sao Trung Hoa lại có động thái để tìm sự tôn trọng của thế giới? Phải chăng, đó là do Trung Hoa đã cảm nhận sự o ép hay đối phó đáng sợ của siêu cường thế giới Mỹ trong nỗi lo sợ Trung Hoa sẽ vươn lên làm 1 siêu cường đối trọng với họ? Hãy nhớ lại, lần lượt các chân rết của Trung Hoa như Afganistan, Lybia, châu Phi đều đã bị Mỹ chặt đứt, sắp tới có thể là Iran, Syria, trong tương lai có thể sẽ là biển Đông.
Thực tế thì Mỹ và thế giới lại cũng rất cần đến Trung Hoa. Tuy nhiên, khi Trung Hoa không thể tự do, tự mình phát triển được 1 nền kinh tế đứng trên đôi chân mình nhờ khoa học kỹ thuật, sáng tạo, nguồn tài nguyên năng lượng dồi dào thì ai sẽ là người được hưởng lợi lớn hơn cả? Đó phải chăng là những Apple, Sony, IBM, Intel v.v...?
Thực tế thì bài viết này của ông Robert Skidelsky chủ yếu xoay quanh các giá trị về tư tưởng chứ không phải phân tích về kinh tế, kỹ thuật, thương hiệu.
Về mặt tăng trưởng GDP, nếu Trung Hoa vẫn giữ phong độ phát triển là 8% 1 năm thì đến năm 2017 sẽ vươn lên đứng đầu thế giới. Chi tiêu quân sự cũng tăng trưởng mạnh theo tăng trưởng GDP. Nhờ đó, Trung Hoa được coi là có một sự trỗi dậy, và sự trỗi dậy này có khả năng làm Trung Hoa trở thành siêu cường mới của thế giới hay không? Nếu không thể là siêu cường mới, thì những động thái này mang hàm ý gì? Ẩn ý của tác giả bài viết này muốn nói lên điều gì?
Thực tế thì ngay trong blog này của BS Hồ Hải, đã có không ít bài viết về Trung Hoa với cái nhìn và đánh giá tương tự bài viết này, đó là những bất ổn nội tại của Trung Hoa, giá trị hình thái chính trị, giá trị tư tưởng của các chính khách mà có thể là của cả dân tộc chưa thoát khỏi tư tưởng Khổng Tử và Nho giáo. Có vẻ như những thực trạng và những giá trị văn hóa chính trị này mang lại sử nguy hiểm cho phần còn lại của thế giới hơn là mang lại cho thế giới 1 siêu cường mới với những trách nhiệm nhất định với thế giới (như Mỹ hoặc Liên Xô cũ). Hoặc có thể những động thái gần đây với thế giới bên ngoài chỉ là một cách để Trung Hoa giải quyết các mâu thuẩn nội bộ.
Tác giả bài viết nghiêng về giả thuyết này nhiều hơn: vừa giải quyết mâu thuẫn nội bộ vừa giải quyết ý chí Trung Hoa muốn sự tôn trọng của phần còn lại của thế giới.
Việc giải quyết mâu thuẫn nội bộ, có lẽ không cần nói nhiều hơn, nhưng tại sao Trung Hoa lại có động thái để tìm sự tôn trọng của thế giới? Phải chăng, đó là do Trung Hoa đã cảm nhận sự o ép hay đối phó đáng sợ của siêu cường thế giới Mỹ trong nỗi lo sợ Trung Hoa sẽ vươn lên làm 1 siêu cường đối trọng với họ? Hãy nhớ lại, lần lượt các chân rết của Trung Hoa như Afganistan, Lybia, châu Phi đều đã bị Mỹ chặt đứt, sắp tới có thể là Iran, Syria, trong tương lai có thể sẽ là biển Đông.
Thực tế thì Mỹ và thế giới lại cũng rất cần đến Trung Hoa. Tuy nhiên, khi Trung Hoa không thể tự do, tự mình phát triển được 1 nền kinh tế đứng trên đôi chân mình nhờ khoa học kỹ thuật, sáng tạo, nguồn tài nguyên năng lượng dồi dào thì ai sẽ là người được hưởng lợi lớn hơn cả? Đó phải chăng là những Apple, Sony, IBM, Intel v.v...?
Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012
Xung quanh chuyện "kiều nữ bán dâm"
Có lẽ ngoài chuyên mục thể thao và kinh doanh, tôi không nên đọc các mục khác trong VNExpress, nhất là mục Pháp luật, bởi các tin về "hiếp, bán dâm" ngày càng trở nên phổ biến.
Chẳng hạn: http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2012/05/nguoi-mau-dien-vien-ban-dam-gia-1-500-usd/
Xét theo góc độ xử lý trật tự xã hội, thì tội môi giới mại dâm là phạm tội hình sự, còn các đối tượng tham gia mua - bán dâm chỉ là dân sự, chỉ bị xử phạt hành chính. Và luật pháp cấm bán dâm, cũng có phần vi phạm trong tuyên ngôn độc lập: "tất cả mọi người được tụ do sống, làm việc, và mưu cầu hạnh phúc". Việc mua, bán dâm đã tồn tại xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển loài người, nó chỉ bị kỳ thị bởi các quan niệm về đạo đức con người, mà quan niệm thì thường là mang tính cảm tính. Với sự tiến hóa của xã hội, tình dục đã không chỉ còn đơn thuần là để duy trì nòi giống, mà nó còn là một nhu cầu tâm sinh lý bình thường của một người bình thường, điều này đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra. Do vậy, ai cũng có quyền được thỏa mãn nhu cầu đó của bản thân miễn là không gây ảnh hưởng đến các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Mua, bán dâm dựa trên sự tự nguyện của cả 2 đối tượng mua và bán, dựa trên thỏa thuận sòng phẳng nên việc coi nó là phạm tội là 1 góc nhìn cảm tính, thiếu cơ sở khoa học.
Trên thế giới, nhiều nước đã cho việc mại dâm là hợp pháp, một số nước tiên tiến như Nhật, Hàn, tuy luật chưa chính thức thừa nhận mua bán dâm là hợp pháp nhưng chính quyền thường "làm ngơ" cho mại dâm và tạo ra những điểm vui chơi đặc thù (phố đèn đỏ) để các đối tượng mua bán dâm tập trung về đó giao dịch.
Thế còn tại nước ta? Việc phá các vụ án mại dâm chỉ là 1 trong những nhiệm vụ của cơ quan công an, do trách nhiệm thực thi và đảm bảo pháp luật được thực thi của họ. Vậy thì, với những vụ án mà báo chí cố ý làm đình đám như trên, phải chăng làm cho độc giả nghĩ rằng công an đang tập trung mạnh vào việc trấn áp các đối tượng mua bán dâm, mà đặc biệt là các đối tượng sinh viên, nghệ sỹ? Còn những mặt khác đang rất nóng bỏng, nhức nhối như tham nhũng, buôn bán ma túy, buôn lậu, chặt phá rừng, trộm cướp thì sao lâu nay không thấy có vụ nào nổi bật? Phải chăng các báo đài chỉ còn 1 vài cách câu khách mà nó đang trở nên nhàm chán?
Một khía cạnh nữa mang tính xã hội: mua dâm với giá 1500 USD, sinh viên bán dâm giá 2 triệu đồng, người mẫu, diễn viên bán dâm ... Đó là chuyện chẳng có gì là lạ và tại các nước phát triển cũng xảy ra hiện tượng này nhan nhản. Vậy thì sao nó thu hút người đọc? Vì nó gây tò mò? Hay vì nó nhằm mục tiêu phổ biến cho cả xã hội về 1 nghề mới có thu nhập cao và có chút rủi ro?
1 sinh viên, nếu đi làm phụ bán hàng, lương 30 ngàn 1 giờ, nếu đi bán dâm thì giá 1 triệu 1 giờ? Trong 1 số hoàn cảnh khó khăn, thì có lẽ sẽ lựa chọn cho mức giá 1 triệu, thậm chí cao hơn, tại sao không? Nhân phẩm, hay sự ý thức về nhâm phẩm như vậy là có thể định giá, vậy thì còn cái gì là không thể định giá tại xã hội này? Nếu cứ tiếp tục cái tư duy truyền thông này cộng với thói quen tư duy 1 bước của nhiều người Việt, tôi lo lắng rằng những bài báo đáng ra mang tính cảnh tỉnh, giáo dục con người sẽ có tác dụng ngược, là cổ súy cho con người tiến đến các vi phạm.
Bài sau, sẽ bàn về tư duy 1 bước và tư duy 2 bước.
Chẳng hạn: http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2012/05/nguoi-mau-dien-vien-ban-dam-gia-1-500-usd/
Xét theo góc độ xử lý trật tự xã hội, thì tội môi giới mại dâm là phạm tội hình sự, còn các đối tượng tham gia mua - bán dâm chỉ là dân sự, chỉ bị xử phạt hành chính. Và luật pháp cấm bán dâm, cũng có phần vi phạm trong tuyên ngôn độc lập: "tất cả mọi người được tụ do sống, làm việc, và mưu cầu hạnh phúc". Việc mua, bán dâm đã tồn tại xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển loài người, nó chỉ bị kỳ thị bởi các quan niệm về đạo đức con người, mà quan niệm thì thường là mang tính cảm tính. Với sự tiến hóa của xã hội, tình dục đã không chỉ còn đơn thuần là để duy trì nòi giống, mà nó còn là một nhu cầu tâm sinh lý bình thường của một người bình thường, điều này đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra. Do vậy, ai cũng có quyền được thỏa mãn nhu cầu đó của bản thân miễn là không gây ảnh hưởng đến các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Mua, bán dâm dựa trên sự tự nguyện của cả 2 đối tượng mua và bán, dựa trên thỏa thuận sòng phẳng nên việc coi nó là phạm tội là 1 góc nhìn cảm tính, thiếu cơ sở khoa học.
Trên thế giới, nhiều nước đã cho việc mại dâm là hợp pháp, một số nước tiên tiến như Nhật, Hàn, tuy luật chưa chính thức thừa nhận mua bán dâm là hợp pháp nhưng chính quyền thường "làm ngơ" cho mại dâm và tạo ra những điểm vui chơi đặc thù (phố đèn đỏ) để các đối tượng mua bán dâm tập trung về đó giao dịch.
Thế còn tại nước ta? Việc phá các vụ án mại dâm chỉ là 1 trong những nhiệm vụ của cơ quan công an, do trách nhiệm thực thi và đảm bảo pháp luật được thực thi của họ. Vậy thì, với những vụ án mà báo chí cố ý làm đình đám như trên, phải chăng làm cho độc giả nghĩ rằng công an đang tập trung mạnh vào việc trấn áp các đối tượng mua bán dâm, mà đặc biệt là các đối tượng sinh viên, nghệ sỹ? Còn những mặt khác đang rất nóng bỏng, nhức nhối như tham nhũng, buôn bán ma túy, buôn lậu, chặt phá rừng, trộm cướp thì sao lâu nay không thấy có vụ nào nổi bật? Phải chăng các báo đài chỉ còn 1 vài cách câu khách mà nó đang trở nên nhàm chán?
Một khía cạnh nữa mang tính xã hội: mua dâm với giá 1500 USD, sinh viên bán dâm giá 2 triệu đồng, người mẫu, diễn viên bán dâm ... Đó là chuyện chẳng có gì là lạ và tại các nước phát triển cũng xảy ra hiện tượng này nhan nhản. Vậy thì sao nó thu hút người đọc? Vì nó gây tò mò? Hay vì nó nhằm mục tiêu phổ biến cho cả xã hội về 1 nghề mới có thu nhập cao và có chút rủi ro?
1 sinh viên, nếu đi làm phụ bán hàng, lương 30 ngàn 1 giờ, nếu đi bán dâm thì giá 1 triệu 1 giờ? Trong 1 số hoàn cảnh khó khăn, thì có lẽ sẽ lựa chọn cho mức giá 1 triệu, thậm chí cao hơn, tại sao không? Nhân phẩm, hay sự ý thức về nhâm phẩm như vậy là có thể định giá, vậy thì còn cái gì là không thể định giá tại xã hội này? Nếu cứ tiếp tục cái tư duy truyền thông này cộng với thói quen tư duy 1 bước của nhiều người Việt, tôi lo lắng rằng những bài báo đáng ra mang tính cảnh tỉnh, giáo dục con người sẽ có tác dụng ngược, là cổ súy cho con người tiến đến các vi phạm.
Bài sau, sẽ bàn về tư duy 1 bước và tư duy 2 bước.
Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012
Xung quanh chuyện giá xăng
- Tăng nhanh, giảm nhỏ giọt.
- DN ngành xăng than lỗ
Chỉ với 2 hiện tượng trên, ta thấy gì ở thị trường xăng dầu VN?
Đặc tính của giá xăng dầu: Ai cũng biết, xăng dầu là mặt hàng quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, do vậy, sự biến động về giá có ảnh hưởng đến mọi mặt nền kinh tế của 1 đất nước. Không may là, giá xăng dầu lại phụ thuộc vào giá cả giao dịch trên các sàn GD lớn của thế giới, nơi mà các nước như VN ko thể tác động đến. Sự tăng giảm giá trị của đồng USD, EUR cũng làm cho giá xăng dầu tăng giảm.
Hiện tượng giá xăng dầu tăng, giảm tại VN?
- Phụ thuộc giá thị trường thế giới
- Phụ thuộc vào tỷ giá VND/USD
- Phụ thuộc vào chính sách giá.
- Khác với các nước lớn như Mỹ, châu Âu, giá xăng dầu VN ko phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng tăng hay giảm tại VN.
Trong khi nền kinh tế còn yếu, phụ thuộc rất nhiều vào giá cả đầu vào như xăng dầu, nguyên liệu thì chính phủ có có những quy định khắt khe đối với giá xăng dầu là việc hiển nhiên phải có. Việc tìm kiếm lợi nhuận lớn nhờ việc kinh doanh xăng dầu là việc phải chịu nghiêm cấm từ chính phủ để biến cái ngành kinh doanh xăng dầu thành 1 ngành mà không 1 doanh nghiệp tư nhân vì lợi nhuận nào muốn làm, để họ dồn vốn vào các ngành nghề khác. DNNN kinh doanh xăng dầu là hợp lý, thậm chí chỉ cần 1 DN kinh doanh không lợi nhuận là đủ. Các DNNN, sử dụng tiền của CP để kinh doanh, lại còn đòi phải có lợi nhuận cao là điều không thể chấp nhận. Trách nhiệm của họ là cung ứng đáp ứng đầy đủ xăng dầu cho nền kinh tế, và chỉ có vậy. Khi đó, giá xăng dầu tại VN để thả nổi theo giá thế giới, và DN xăng dầu niêm yết giá sao cho họ có 1 khoản chênh lệch cố định đủ để bù lại chi phí vận hành DN. Trong những trường hợp giá xăng dầu tăng quá đột ngột, chính phủ thực hiện hỗ trợ về giá. Đó là 1 mô hình đã thực hiện được tại các nước khác.
Vậy, tại sao ở VN chúng ta không làm? DNNN kiếm tiền để làm gì?
Câu trả lời này, không khó để trả lời.
- DN ngành xăng than lỗ
Chỉ với 2 hiện tượng trên, ta thấy gì ở thị trường xăng dầu VN?
Đặc tính của giá xăng dầu: Ai cũng biết, xăng dầu là mặt hàng quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, do vậy, sự biến động về giá có ảnh hưởng đến mọi mặt nền kinh tế của 1 đất nước. Không may là, giá xăng dầu lại phụ thuộc vào giá cả giao dịch trên các sàn GD lớn của thế giới, nơi mà các nước như VN ko thể tác động đến. Sự tăng giảm giá trị của đồng USD, EUR cũng làm cho giá xăng dầu tăng giảm.
Hiện tượng giá xăng dầu tăng, giảm tại VN?
- Phụ thuộc giá thị trường thế giới
- Phụ thuộc vào tỷ giá VND/USD
- Phụ thuộc vào chính sách giá.
- Khác với các nước lớn như Mỹ, châu Âu, giá xăng dầu VN ko phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng tăng hay giảm tại VN.
Trong khi nền kinh tế còn yếu, phụ thuộc rất nhiều vào giá cả đầu vào như xăng dầu, nguyên liệu thì chính phủ có có những quy định khắt khe đối với giá xăng dầu là việc hiển nhiên phải có. Việc tìm kiếm lợi nhuận lớn nhờ việc kinh doanh xăng dầu là việc phải chịu nghiêm cấm từ chính phủ để biến cái ngành kinh doanh xăng dầu thành 1 ngành mà không 1 doanh nghiệp tư nhân vì lợi nhuận nào muốn làm, để họ dồn vốn vào các ngành nghề khác. DNNN kinh doanh xăng dầu là hợp lý, thậm chí chỉ cần 1 DN kinh doanh không lợi nhuận là đủ. Các DNNN, sử dụng tiền của CP để kinh doanh, lại còn đòi phải có lợi nhuận cao là điều không thể chấp nhận. Trách nhiệm của họ là cung ứng đáp ứng đầy đủ xăng dầu cho nền kinh tế, và chỉ có vậy. Khi đó, giá xăng dầu tại VN để thả nổi theo giá thế giới, và DN xăng dầu niêm yết giá sao cho họ có 1 khoản chênh lệch cố định đủ để bù lại chi phí vận hành DN. Trong những trường hợp giá xăng dầu tăng quá đột ngột, chính phủ thực hiện hỗ trợ về giá. Đó là 1 mô hình đã thực hiện được tại các nước khác.
Vậy, tại sao ở VN chúng ta không làm? DNNN kiếm tiền để làm gì?
Câu trả lời này, không khó để trả lời.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)